Tiền mãn kinh và mãn kinh là gì? Triệu chứng và nguyên nhân gây ra hiện tượng tiền mãn kinh và mãn kinh
Tiền mãn kinh và mãn kinh là những giai đoạn mà bất kỳ nữ giới nào cũng phải trải qua. Đây là thời kỳ đánh dấu sự chuyển tiếp hoặc chấm dứt hoàn toàn khả năng sinh sản của nữ giới. Vậy cụ thể mãn kinh và tiền mãn kinh là gì? Hai giai đoạn này có những điểm gì khác nhau? Hãy cùng tìm hiểu thông tin qua bài viết bên dưới.

ĐỊNH NGHĨA TIỀN MÃN KINH VÀ MÃN KINH
Tiền mãn kinh và mãn kinh là 2 giai đoạn có sự liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến tâm sinh lý và sức khỏe của nữ giới. Cụ thể:
1. Tiền mãn kinh
Tiền mãn kinh (còn gọi là thời kỳ chuyển tiếp mãn kinh) là giai đoạn trước khi nữ giới chính thức bước sang thời kỳ mãn kinh. Trong giai đoạn này, nồng độ hormone Estrogen bắt đầu có hiện tượng suy giảm gây ảnh hưởng đến hoạt động của các bộ phận trong cơ thể, đặc biệt là sự rối loạn chu kỳ kinh nguyệt và chức năng sinh sản của nữ giới.
Thời kỳ tiền mãn kinh thường bắt đầu từ 8 – 10 năm trước thời kỳ mãn kinh diễn ra. Theo một số thống kê, độ tuổi trung bình của nữ giới khi bước vào thời kỳ tiền mãn kinh là từ 40 – 47 tuổi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thời kỳ tiền mãn kinh có thể đến sớm hơn (tiền mãn kinh sớm) ở giai đoạn cuối tuổi 30 hoặc trễ hơn (tiền mãn kinh muộn) trong khoảng 50 tuổi.
2. Mãn kinh
Mãn kinh là quá trình tự nhiên của cơ thể chịu tác động bởi sự suy giảm chức năng và hoạt động của buồng trứng, làm cho cơ thể nữ giới không tiếp tục diễn ra quá trình rụng trứng cũng như nồng độ các nội tiết tố như Estrogen suy giảm nghiêm trọng. Điều này có nghĩa là khi bước vào thời kỳ mãn kinh, chu kỳ kinh nguyệt của nữ giới sẽ chấm dứt và chị em cũng không còn khả năng sinh sản.
Thông thường, thời kỳ mãn kinh sẽ diễn ra khi nữ giới bước vào độ tuổi 50. Tuy nhiên, tùy thuộc vào thể trạng của từng người mà quá trình này có thể diễn ra sớm hoặc trễ hơn, dao động trong khoảng từ 45 – 55 tuổi.
TRIỆU CHỨNG CÓ GÌ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA TIỀN MÃN KINH VÀ MÃN KINH
Mãn kinh và tiền mãn kinh là 2 giai đoạn có sự liên kết và liên quan mật thiết đến nhau. Các triệu chứng khởi phát của 2 quá trình này đều khá giống nhau. Tuy nhiên, các triệu chứng của giai đoạn tiền mãn kinh có phần nhẹ nhàng và ít gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm sinh lý của nữ giới hơn các triệu chứng diễn ra trong thời kỳ mãn kinh.

Một số triệu chứng có thể kể đến khi nữ giới bước vào thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh như:
1. Tiền mãn kinh
Khi bắt đầu giai đoạn tiền mãn kinh cơ thể nữ giới xuất hiện các triệu chứng như:
- Kinh nguyệt không đều hoặc rối loạn chu kỳ kinh nguyệt;
- Thường xuyên bốc hỏa, đổ nhiều mồ hôi;
- Mất ngủ hay khó ngủ;
- Tâm trạng thay đổi thất thường, buồn vui, nóng giận vô cớ;
- Đau đầu, chóng mặt;
- Khô âm đạo, đau rát khi quan hệ tình dục.
2. Mãn kinh
Ngoài những triệu chứng tương tự như thời kỳ tiền mãn kinh với các dấu hiệu trở nặng hơn, thời kỳ mãn kinh còn có thêm các triệu chứng sau:
- Luôn có cảm giác nóng đột ngột lan nhanh từ mặt ra toàn bộ cơ thể;
- Đau đớn khi quan hệ tình dục;
- Có các dấu hiệu của bệnh trầm cảm nhẹ;
- Dễ bị cảm lạnh và căng tức ngực;
- Đi tiểu nhiều lần và tình trạng tiểu gấp thường xuyên xảy ra;
- Khô da, khô mắt và khô miệng;
- Hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS) trầm trọng hơn;…
NGUYÊN NHÂN GÂY RA HIỆN TƯỢNG TIỀN MÃN KINH VÀ MÃN KINH
Tiền mãn kinh và mãn kinh là thời kỳ mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng sẽ trải qua. Nội tiết tố của người phụ nữ suy giảm tự nhiên theo độ tuổi. Ở phụ nữ trong độ tuổi 30, buồng trứng sẽ bắt đầu sản xuất ít estrogen và progesterone hơn, khả năng sinh sản bắt đầu suy giảm. Sang tuổi 40, chu kỳ kinh nguyệt của chị em sẽ có nhiều rối loạn, có thể dài hơn hoặc ngắn hơn, lượng máu kinh cũng biến động nhiều hơn hoặc ít hơn… khi qua tuổi 51, buồng trứng không còn giải phóng trứng và hiện tượng kinh nguyệt dừng lại.
Bên cạnh đó, một số yếu tố khách quan từ môi trường sống, sinh hoạt cũng như các liệu pháp điều trị các bệnh lý khác cũng là nguyên nhân gây ra tiền mãn kinh và mãn kinh ở nữ giới. Bao gồm:
- Sử dụng nhiều thuốc lá.
- Lượng chất béo trong cơ thể không phù hợp.
- Các bệnh lý di truyền và tự miễn.
- Cắt bỏ một hoặc cả hai buồng trứng.
- Xạ trị hoặc hóa trị để điều trị các bệnh lý liên quan.
- Cắt bỏ tuyến yên.
- Các phương pháp điều trị ở phần bụng hoặc vùng xương chậu có tác động trực tiếp làm ảnh hưởng, tổn thương buồng trứng.
-Suy buồng trứng sớm.